BÀI ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ CHĂN NUÔI VỀ SẢN PHẨM BEENOVATION H4BEES

 

 

KHẢ NĂNG CẢI THIỆN SỨC KHỎE ONG MẬT APIS MELLIFERA

TẠI HÀ NỘI CỦA SẢN PHẨM BEENOVATION H4BEES

Nguyễn Thị Lan Anh1, Gal Zagury2 và Phạm Hồng Thái1*
Ngày nhận bản thảo bài báo: 12/10/2024 – Ngày nhận bài phản biện: 25/10/2024 Ngày bài báo được chấp nhận đăng: 12/11/2024

TÓM TẮT

Một số chế phẩm sinh học có thành phần là các vi sinh vật có ích, cũng như các loại thức ăn bổ sung hoặc thay thế, có hiệu quả tốt đối với đàn ong mật được bổ xung trực tiếp vào từng cá thể ong thông qua con đường tiêu hóa. Từ đó, kích thích tăng khả năng chống chịu tiềm tàng cũng như sự phát triển bền vững của quần thể ong mật. Nhằm đánh giá khả năng cải thiện sức khỏe tự nhiên của đàn ong, đồng thời làm giảm công chăm sóc của người nông dân sản phẩm Beenovation H4bees được rải trực tiếp trên xà cầu ong, cho các con ong thợ tiếp xúc vật lí với tần suất 2 tuần/lần. Thí nghiệm diễn ra liên tục trong 3 tháng, các thông số hoạt động của đàn ong về khả năng bao phủ cầu, số lượng trứng + ấu trùng được theo dõi dưới hệ quy chiếu ô vuông quy ra diện tích phần trăm, trước mỗi lần cho tiếp xúc với sản phẩm. Kết quả cho thấy sản phẩm Beenovation H4bees tác dụng kích thích làm gia tăng sự phát triển của đàn ong khiến số cầu tăng 32% so với ban đầu, số quân bám trên cầu cao nhất ở đàn được tiếp xúc với sản phẩm là 2787,75±615,08 con, ĐC là 2399,25±780,03 con. Đồng thời, diện tích khu vực trứng + ấu trùng cao nhất 28,14±15,58% và sức đẻ trứng là 663,33±285,4 trứng trong khi ĐC chỉ 18,43±8.34% và 520,42±314,27 trứng. Tỷ lệ biểu hiện bệnh ở các đàn được xử lý thấp khoảng 8,57% còn ĐC là 17,14%.
Từ khóa: Sản phẩm Beenovation H4bees, Apis mellifera, ve kí sinh.

ABSTRACT
Improving the health of bees by the Beenovation H4bees product on Apis mellifera in Ha Noi
Some biological products containing beneficial microorganisms, as well as safe supplementary or alternative feeds, are effectively administered directly to individual honey bees through the digestive system. This stimulates the potential for increased resilience and sustainable development of the honey bee population. To assess the ability to improve the natural health of the bee colony while reducing the care required by farmers, the product Beenovation H4bees was directly spread on the bee frames, allowing the worker bees to physically interact with it every two weeks. The experiment lasted continuously for three months, monitoring the colony’s activity parameters regarding frame coverage, the number of eggs and larvae, which were tracked using a square reference system converted to percentage area, before each application of the product. The results show that the Beenovation H4bees product stimulates the growth of bee colonies, increasing the number of frames by 32% compared to the initial count. The highest number of bees on the frame in the treated group was 2787.75±615.08, while the control group had only 2399.25±780.03. Additionally, the area of eggs and larvae reached a maximum of 28.14±15.58%, and the egg-laying rate was 663.33±285.4 eggs, whereas the control group had only 18.43±8.34% and 520.42±314.27 eggs, respectively. The disease expression rate in the treated colonies was low at about 8.57%, while the control group was 17.14%.
Keywords: Beenovation H4bees product, Apis mellifera, mite.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mật ong là một trong những sản phẩm dinh dưỡng được con ong tạo ra mà con người ưa chuông nhất, hơn hết vai trò thụ phấn của ong mật cho ngành nông nghiệp còn lớn hơn hàng chục lần so với giá trị của tất cả các sản phẩm từ đàn ong (Crane, 1990). Hiện nay, vấn đề chất lượng mật ong ngày càng được quan tâm sâu sắc, việc sử dụng các chất có thể gây hại cho sức khỏe con người để phòng bệnh cho ong mật, cũng như bổ sung các chất thay thế cho đàn ong có thể để lại dư lượng trong sản phẩm mật ong và làm đàn ong suy yếu (Bùi Thị Phương Hòa và ctv, 2012). Để hạn chế tồn dư của các chất xử lí bệnh hại và bảo vệ sức khỏe của loài thụ phấn thông qua kích thích sức đề kháng tiềm tàng của chúng, từ đó thúc đẩy đàn ong phát triển khỏe mạnh thì việc tạo ra các chế phẩm sinh học, thức ăn bổ xung hoặc thay thế có hiệu quả tốt an toàn và thân thiện với môi trường là hướng đi mới có triển vọng cao (Kwong và Moran, 2016; Phạm Thị Lành và ctv, 2022). Sự hiện diện của vi khuẩn LAB trong dạ dày mật và các chất kháng khuẩn của chúng trong bánh ong cho thấy vai trò của nó trong việc phòng chống các bệnh của ong mật, vì bánh ong được cả ấu trùng và ong trưởng thành tiêu thụ (Alejandra và Olofsson, 2009). Các vi khuẩn có lợi trong dạ dày của ong mật được tách triết và đưa vào sản xuất đặc biệt nhóm axit lactic (LAB) và bifidobacteria (Fontana và ctv, 2013; Olofsson và ctv, 2014; Cao Thanh Nhẹ và ctv, 2020).. Các chế phẩm từ nhóm vi khuẩn này và các sản phẩm bổ trợ khác được bổ sung trực tiếp vào đường ruột của đàn ong thông qua thức ăn bổ sung, đã chứng minh là có hiệu quả đáng kể làm tăng sức đề kháng, cũng như chống lại các tác nhân gây bệnh và kéo dài tuổi thọ của con ong (Forsgren và ctv, 2010; Alberoni và ctv, 2022).Sản phẩm Beenovation H4Bees của công ty trách

1 Trung tâm nghiên cứu Ong và Nuôi ong Nhiệt đới
2 Công ty trách nhiệm hữu hạn Biosynergy
* Tác giả liện hệ: PGS.TS. Phạm Hồng Thái, Trung tâm nghiên cứu Ong và Nuôi ong Nhiệt đới, Học viện Nông nghiệp Việt Nam; ĐT: 0904147845 Email: phthaihua@gmail.com.

nhiệm hữu hạn Biosynergy sản xuất, với thành phần chính là một loại đường biến tính chứa một lượng nhỏ khoáng và các hợp chất hữu cơ, giúp kích hoạt sức đề kháng của đàn ong để vượt qua các yếu tố bất thuận ngoài tự nhiên, từ đó kích thích sự phát triển khỏe mạnh một cách bền vững. Sản phẩm đã được thử nghiệm ở nhiều quốc gia như Israel, Hy Lạp, Ethiopia,… được xác nhận là mang lại hiệu quả tốt. Nhằm đánh giá chính xác hiệu quả của sản phẩm này trên đàn các đàn ong ngoại nuôi trong điều kiện môi trường khí hậu ở Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành “Thử nghiệm khả năng cải thiện sức khỏe đàn ong của sản phẩm Beenovation H4Bees trên các đàn ong ngoại apis mellifera tại Hà Nội”.

2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian
Thí nghiệm (TN) sử dụng chế phẩm Beenovation H4Bees được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Ong và Nuôi ong Nhiệt đới (Học viện Nông nghiệp Việt Nam), từ tháng 8/2023 đến tháng 11/2023.
2.2. Bố trí thí nghiệm
Các đàn ong TN thuộc giống ong ngoại Apis mellifera L., được chia thành hai nhóm, mỗi nhóm 10 đàn: Nhóm TN và đối chứng (ĐC). Mỗi nhóm có thế đàn tương đương và được quản lý bởi các con chúa mới giao phối có cùng độ tuổi (Schmidt và Engel, 2016). Hai nhóm cách nhau 30-50m, để ngăn chặn sự lan truyền chéo giữa các đàn. Phương pháp cho ăn:

Nhóm TN: Được tiếp xúc với 5g sản phẩm Beenovation H4Bees, bằng cách rải đều sản phẩm trên các sà cầu ong, 14 ngày/lần liên tục trong 3 tháng cùng chế độ ăn bổ xung siro đường tỷ lệ 1:1 với liều lượng 500 ml/đàn với tần suất 2 lần/tuần.

Nhóm ĐC: Chỉ được ăn bổ xung siro đường với liều lượng tương đương.

Hình 1. Cho ong ăn Beenovation H4Bees

Xác định thông số hoạt động của đàn ong
1. Số lượng quân bao phủ cầu ong 14 ngày
2. Diện tích trứng+ấu trùng trong đàn 14 ngày
3. Khả năng đẻ trứng của ong chúa 14 ngày
4. Số lượng trung bình các cầu ong 14 ngày
5. Khả năng chống lại tác nhân gây bệnh 14 ngày
(Do thời điểm diễn ra thí nghiệm không nằm trong vụ mật của vùng, nên dữ liệu về lượng mật và phấn tích trữ bị bỏ qua).
Sử dụng khung cầu căng dây thép chia ô vuông kích thước 5cmx5cm (1 ô vuông tương ứng với 100 lỗ tổ) đặt cân đối vào chính giữa mặt cầu ong, đếm số ô vuông con ong bám trên mặt cầu, số ô vuông trứng + ấu trùng, ô vuông nhộng của cả hai mặt cầu. Đo đếm các chỉ tiêu trên của 20 đàn ong với tần suất 14 ngày/lần, trước khi cho các đàn ong ở nhóm TN tiếp xúc với sản phẩm.

Hình 2. Các thông số hoạt động của đàn ong

6. Sức đẻ trứng của ong chúa trong một ngày đêm của các đàn ong được tính bằng công thức:
7. Sức đẻ trứng (trứng/ngày/đêm) = (Số ô nhộng x 100)/12.
Trong đó, tổng số ngày nhộng trong tổ vít nắp là 12 đối với ong ngoại.
8. Xác định số lượng ong phủ trên mặt cầu: 20 ô vuông ong ngẫu nhiên có số lượng quân phủ đều trên mặt cầu được chọn lọc để đếm số lượng từng con ong bằng mắt thường thông qua hình ảnh. Số lượng ong trong một ô vuông được xác định bằng trung bình của các lần đo đếm.

Hình 3. Xác định số lượng ong bám trên mặt cầu

Xác định tỉ lệ nhiễm bệnh

9. Tỷ lệ nhiễm ve ký sinh/bệnh ấu trùng của đàn ong: Tỷ lệ nhiễm (%) = (Số đàn nhiễm/Tổng số đàn điều tra)x100
10. Tỷ lệ nhiễm bệnh của mỗi nhóm bằng trung bình tỷ lệ nhiễm bệnh của các lần điều tra.
2.3. Phân tích thống kê
Dữ liệu được thể hiện dưới dạng giá trị trung bình (Mean) ± độ lệch chuẩn (SD), so sánh thống kê giữa nghiệm thức sử dụng sản phẩm Beenovation H4Bees bằng T-test ở mức tin cậy 95%.

3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Tác động của sản phẩm lên số lượng quân bao phủ cầu
Các đàn ong khi được tiếp xúc với sản phẩm Beenovation H4Bees đã có nhưng khác biệt đáng kể về số lượng quân bao phủ trên mặt cầu so với nhưng đàn ong ĐC (Hình 4).

Hình 4. Số lượng quân trong đàn ở 2 nhóm

Có thể thấy sự sụt giảm số lượng quân ong thợ của tất cả các đàn ong trong thí nghiệm qua 3 lần điều tra, tương ứng giai đoạn kết thúc hè (thời điểm làm việc vất vả nhất của đàn ong) chuyển sang thu (tháng 8-9). Trong các tổ ong được tiếp xúc với sản phẩm, số lượng trung bình quân ong thợ bao phủ cầu lớn hơn đã được ghi nhận vào tháng 9-10 tại đợt điều tra thứ 3, 4 và 5, lần lượt là 2.352±730,5; 2.787,75±615,1 và 2.465,75±1035,4 con. Trong khi đó, số lượng ong thợ bao phủ cầu thấp hơn ở các đàn ĐC được xử lý ghi nhận được là 1.995±486,8; 2.399,25±780 và 2.383,5±688,9 con trong cùng đợt điều tra. Cuối thí nghiệm tác dụng của sản phẩm không được biểu hiện rõ ràng.
Nhiều nghiên cứu cũng đã nhấn mạnh việc sử dụng chế phẩm sinh học có thành phần từ vi khuẩn axit lactic đặc hiệu của ong mật (Hbs-LAB) hay CRL1647, hoặc một số chất đi kèm prebiotic eugenol, chitosan, và naringenin và lợi khuẩn Protexin (Enterococcus faecium) được phân lập từ đường ruột của ong mật đã thề hiện khả năng cải thiện sức khỏe làm tăng tuổi thọ của ong thợ cũng như toàn bộ đàn ong làm chúng trở lên tràn lan (Audisio và ctv, 2015; Shane và ctv, 2021; Elenany và Hassan, 2023).

3.2. Tác động lên tỷ lệ trứng + ấu trùng
Như thể hiện trong hình 5, có sự khác biệt rõ ràng về diện tích trung bình phần trăm lứa trứng + ấu trùng non kế tiếp trong các đàn ong được tiếp xúc với sản phẩm Beenovation H4Bees so với các đàn ong ĐC.

Hình 5. Trứng + ấu trùng trong đàn ở hai nhóm

Các đàn ong ĐC được ghi nhận trung bình phần trăm diện tích trứng + ấu trùng biến động không đều (10,33±5,45; 8,67±2,92; 8,62±3,81; 13,86±5,56; 8,38±5,55; 14,40±5,19; 18,43±8,35%), trong
khi, các đàn ong ăn CP có diện tích lứa quân non kế tiếp duy trì ổn định và xu hướng tăng dần từ tháng 9 đến tháng 11 (cuối thí nghiệm) lần lượt đạt 10,19±7,28; 11,86±4,14; 9,79±4,62; 12,12±4,28; 13,2±4,40; 18,33±6,61; 28,14±15,58%. Tuy nhiên, sự khác biệt này chưa có ý nghĩa rõ ràng về mặt thống kê, có thể là do thời gian theo dõi và số lượng đàn chưa đủ lớn, nhưng nó đã cho thấy tiềm năng của sản phẩm trong việc duy trì sự đẻ trứng ổn định và chăm sóc ấu trùng của ong chúa.
Một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng khi bổ sung thêm các chất có lợi cho đàn ong đã kích thích sự đẻ trứng của ong chúa. Nghiên cứu của Audisio và Benítez-Ahrendts (2011), sử dụng chủng Lactobacillus johnsonii CRL1647 được phân lập từ đường ruột của ong mật bổ sung cho đàn thông qua xi-rô mía 125 g/l với nồng độ 10,5 cfu/ml lactobacilli trong 3 hoặc 13 tháng liên tiếp đã cho thấy hiệu quả làm tăng đáng kể số lượng ong thợ (54%), khả năng tích trữ mật (40%) cũng như kích thích ong chúa đẻ trứng mạnh mẽ hơn.

3.3. Tác động đến sức đẻ trứng của ong chúa
Tác dụng của chế phẩm đến sức đẻ trứng của ong chúa trên các đàn ong ngoại ở nhóm TN sau lần điều tra thứ 3 đã có nhưng thay đổi đáng kể (Hình 6).

Hình 6. Sức đẻ trứng của ong chúa ở hai nhóm

Sức đẻ trứng trung bình của ong chúa ngày/đêm tại các đàn được xử lý có xu hướng tăng dần tương ứng tại đợt điều tra thứ 4, 5, 6 và 7 lần lượt là 170,42±84,12; 255,92±94,71;
399,58±108,46; 517,08±154,96; 485,00±206,44 và 663,33±285,40 trứng. Trong khi, nhóm ĐC luôn
duy trì ở mức thấp hơn và biến động mạnh vào cuối TN tương ứng là 291,67±123,54; 157,50±82,44; 264,17±65,18; 359,17±144,29; 385,83±306,06; 385,83±255,49 và 520,42±314,27 trứng.
Một số báo cáo chứng minh tác động của probiotic bổ sung cho ong mật đến các hoạt động bên trong của đàn như cho ong ăng bổ sung vi khuẩn axit lactic đặc hiệu của ong mật (Hbs-LAB) của Enenaly và Hassan (2023) cho thấy các đàn ong được xử lý ghi nhận sự khác biệt đáng kể cao trong tất cả các thông số hoạt động (khu vực ấu trùng của ong thợ và ong đực, lượng mật ong và phấn hoa được lưu trữ và số lượng cầu ong được ong bao phủ) so với các đàn ong đối chứng. Đồng thời, tác động tích cực của vi khuẩn Lactic (chủng CRL1647) khi bổ xung cho đàn ong cũng được thể hiện, thông qua tác động đến các khu vực nuôi ấu trùng và khả năng tích trữ mật trên cầu ong nhờ sự kích thích đẻ trứng mạnh mẽ hơn (Audisio và Benítez-Ahrendts, 2011).

3.4. Tác động của sản phẩm đến số lượng cầu
Sau 3 tháng sử dụng sản phẩm, số cầu quân của các đàn nhóm TN đã tăng 32% so với tổng số cầu ban đầu, còn ở lô ĐC chỉ tăng 12% (Hình 7). Như vậy, các đàn ong ở lô TN có xu hướng phát triển tốt và đông quân hơn các đàn ĐC.

Hình 7. Khả năng gia tăng thế đàn ong

Điều này hoàn toàn phù hợp với các kết quả điều tra trên, khi được sử dụng sản phẩm Beenovation H4bees các đàn ong có số lượng quân bám trên mặt cầu tăng, đồng thời phần trăm diện tích trứng + ấu trùng trong đàn cũng có xu hướng tăng, từ đó số lượng cầu ong cũng tăng.
Hiệu quả tương tự làm tăng kích thước quần thể đàn ong cũng đã được chứng minh qua báo cáo của Pătruică và ctv (2012) về tác động của các chất tạo axit, các sản phẩm Enterobiotics và Enterolactis lên tuyến sáp của ong thợ, các đàn ong được cho ăn ba lần một tuần bằng xi-rô đường bổ sung các chất tạo axit (axit lactic hoặc giấm táo) và/hoặc các sản phẩm probiotic kết quả sau 3 tuần cho thấy khi được sử dụng cả hai nhóm axit lactic và sản phẩm probiotic thì kích thước tuyến sáp lớn nhất trung bình 31,8 micron.

3.5. Tác dụng kích thích tăng sức đề kháng
Các đàn ong ở nhóm TN sau khi được tiếp xúc với sản phẩm 14 ngày/lần liên tục trong 3 tháng cho thấy ở mỗi lần điều tra các dấu hiệu nhiễm bệnh đều thấp hơn so với ĐC. Trung bình tỷ lệ nhiễm bệnh ở nhóm được xử lý thấp chỉ khoảng 8,57% trong khi ĐC là 17.14% (Hình 8).

Hình 8. Tỷ lệ nhiễm bệnh trên 2 nhóm

Nhiều nghiên cứu của các tác giả cũng cho thấy, khi sử dụng chế phẩm probiotic thêm vào thức ăn của đàn ong sẽ làm tăng sức đề kháng của chúng và giảm khả năng nhiễm một số bệnh hại trên ong mật. Cụ thể làm giảm mức độ nhiễm Nosema (Daniel, 2021; Nguyễn Thị Lan Anh và ctv, 2024), đồng thời tỷ lệ nhiễm Varroa cũng thấp hơn (Audisio và ctv (2015), làm giảm tải lượng mầm bệnh gây thối ấu trùng Châu Âu (Daisley và ctv, 2020) và có tác dụng phòng ngừa đối với Ascosphaera apis (Iorizzo và ctv, 2020).

LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin cảm ơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Biosynergy đã cung cấp sản phẩm Beenovation H4bees và tài trợ cho nghiên cứu này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alberoni D., Gioia D.D. and Baffoni L. (2022). Alterations in the Microbiota of Caged Honeybees in the Presence of Nosema ceranae Infection and Related Changes in Functionality. Microbial Ecol., 86: 601-16.
2. Alejandra V. and Olofsson T. C., (2009). The lactic acid bacteria involved in the production of bee pollen and bee bread. J. Api. Res., 48(3): 189-95.
3. Nguyễn Thị Lan Anh, Nguyễn Thành Trung và Phạm Hồng Thái (2024). Hiệu quả kích kháng của chế phẩm Probioberbs đối với bệnh Nosema trên ong mật Apis mellifera. Tạp chí KHKT Chăn nuôi, 298: 84-89.
4. Audisio M.C. and Benítez-Ahrendts M. (2011). Lactobacillus johnsonii CRL1647, isolated from Apis mellifera L. bee-gut, exhibited a beneficial effect on honeybee colonies. Beneficial Microbes, 2(1): 29-34.
5. Audisio M.C., Sabaté D.C. and Benítez-Ahrendts M. (2015). Effect of Lactobacillus johnsonii CRL1647 on different parameters of honeybee colonies and bacterial populations of the bee gut. Beneficial Microbes, 6(5): 687-95
6. Crane E. (1990), Con ong và nghề nuôi ong, Cơ sở khoa học thực tiễn và những nguồn tài nguyên thế giới, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.
7. Daisley A.B., Pitek P.A., Chmiel A.J., Al F.K., Chernyshova M.A., Faragalla M.K., Burton P.J., Thompson J.G. and Reid G.
(2020). Novel probiotic approach to counter Paenibacillus larvae infection in honey bees. The ISME J., 14(2): 476-91.
8. Daniel B., Ernesto G.N. and Paul H.G. (2021). Effects of Prebiotics and Probiotics on Honeybees (Apis mellifera Infected with the Microsporidian Parasite Nosema ceranae. Microorganisms, 9(3): 481.
9. Elenany E.Y. and Abdel-Moneim H.A. (2023). Benefcial efect of honeybee-specifc lactic acid bacteria on health and activity of Apis mellifera L. colonies. Bulletin Nat. Res. Centre, 47: 25.
10. Fontana L., Bermudez-Brito M., J. Plaza-Diaz, S. Muñoz-Quezada and Gil A. (2013). Sources, isolation, characterisation and evaluation of probiotics. Bri. J. Nutrition, 109(S2): 35-50.
11. Forsgren E., Tobias C., Olofsson A.V. and Ingemar F.I. (2010). Novel lactic acid bacteria inhibiting Paenibacillus larvae in honey bee larvae. Apidologie, 41(1): 99-08.
12. Bùi Thị Phương Hòa và Chử Văn Tuất (2012). Nghiên cứu, đánh giá tồn dư mốt số hóa chất độc hại và kháng sinh trong mật ong tại một số tỉnh phía Nam. Tạp chí KHKT Thú Y, 19(2): 62-71.
13. Iorizzo M., Lombardi J.S., Ganassi S., Testa B. (2020). Antagonistic Activity against Ascosphaera apis and Functional Properties of Lactobacillus kunkeei Strains. Antibiotics, 9(5): 262.
14. Kwong K.W. and Moran A.N. (2016). Gut microbial communities of social bees. Nature Reviews Microbiol., 14: 374-84.
15. Cao Thanh Nhẹ, Phạm Thị Mai Hương và Nguyễn Thúy Hương (2020). Tuyển chọn và xây dựng bộ sưu tập vi khuẩn Fructophilic Lactic acid (FLAB) từ hệ tiêu hóa ong mật. Tạp chí KH trường ĐH sự phạm TP Hồ Chí Minh, 17(12): 2793-05.
16. Olofsson C.T., Alsterfeld M., Nilson B., Butler E. and Vásquez A. (2014). L. apinorum sp. nov., L. mellifer sp. nov., L. mellis sp. nov., L. melliventris sp. nov., L. kimbladii sp. nov., L. helsingborgensis sp. nov. and L. kullabergensis sp. nov. được phân lập từ dạ dày ong mật Apis mellifera. Microbiol. Society, 64(9): 3109-19.
17. Pătruică S., Dumitrescu G., Stancu A., Bura M. and I.B. Dunea (2012). The Effect of Prebiotic and Probiotic Feed Supplementation on the Wax Glands of Worker Bees (Apis Mellifera). Scientific Papers: Ani. Sci. Biotechnol., 45(2): 268-71.
18. Shane S.K., William V., Les E., Paul G.K., Daniel B., Paul H.G., Tatiana P., Qiang W. and Ernesto G.N. (2021). Nosema
ceranae Infections in Honeybees (Apis mellifera) Treated with Pre/Probiotics and Impacts on Colonies in the Field. Vet. Sci.,
8(6): 107.